Results (
Vietnamese) 1:
[Copy]Copied!
Ngoài các yếu tố quan sát phổ, các nghiên cứu cũng nghiên cứu một số yếu tố đặc trưng cho Việt Nam. Ví dụ, họ luôn chứng minh rằng các công ty thuộc sở hữu nhà nước (nhà) có nhiều khoản nợ hơn của riêng do của mối quan hệ tốt với các ngân hàng nhà nước. Thêm thú vị, khi "mạng" và "mối quan hệ xã hội với các ngân hàng" được đưa vào mô hình hồi quy, rofitability trở nên không đáng kể (Nguyễn và Long năm 2006). Điều này có thể ngụ ý rằng một số yếu tố thêm rất nhiều quan trọng hơn lợi nhuận trong việc giúp đỡ công ty truy cập để vay vốn ngân hàng tại Việt Nam. Một số hạn chế trong các nghiên cứu trước khi vào Việt Nam cơ cấu vốn làm nổi bật sự cần thiết cho nghiên cứu thêm. Thứ nhất, hầu hết các công việc trước khi tập trung vào công ty không được liệt kê và DNN & v. Thứ hai, là công nhận bởi Nguyễn và Ramachandran (2006), độ tin cậy của dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu trước đây là có vấn đề như thông tin tài chính đã được rút ra từ unaudited báo cáo. Cuối cùng, với datasets hẹn hò trở lại đến năm 1998-2001 và 2002-2003 cho Nguyễn Long (2006) và Biger et al. (2008) tương ứng, của những phát hiện phản ánh một bối cảnh đã lỗi thời. Ví dụ, trong năm 1998-2003, Việt Nam là trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế thị trường; do đó là dễ hiểu rằng các biến dạng trong tài chính hoạt động (ví dụ như xã hội quan hệ với các ngân hàng) nên vẫn đã chi phối. Tương tự, như công ty nhà nước sở hữu chi phối nền kinh tế, mối quan hệ rất gần gũi giữa nhà và đòn bẩy là dễ hiểu. Tuy nhiên, câu hỏi vẫn xem sự phát triển tiếp theo của cổ phiếu và trái phiếu thị trường, cùng với các tiếp tục chuyển dịch cơ cấu và cổ phần hóa của nhà đã thay đổi cơ cấu vốn tự nhiên trong các doanh nghiệp Việt Nam (xem 1. Introductionand bảng 1 cho một tổng quan về cách hệ thống tài chính Việt Nam đã phát triển trong những năm qua).
Being translated, please wait..
