Results (
Vietnamese) 2:
[Copy]Copied!
Tất cả ba hệ thống SOFC lai trên đều dựa trên giả định và các thông số tương tự. Các tổn thất áp suất và nhiệt được giả định là 2% trong lò sưởi của hệ thống. Các thông số khác trong hệ thống được thể hiện trong Bảng III. Các tác phẩm mol nhiên liệu là: CH4 93,6%, C2H6 4,9%,
C3H8 0,4%, C4H10 0,2%, CO 0,9%, và không khí gồm N2 79% và O2 21%. Áp lực hoạt động của đơn vị tách không khí đông lạnh là 0,6 MPa, và độ tinh khiết của oxy được giả định là 100%. Nó cũng giả định quá trình đốt cháy hoàn toàn của nhiên liệu trong các đốt sau.
Như thể hiện trong Bảng IV, hiệu quả của không khí thải CO2 áp suất khí quyển hệ thống điện SOFC lai tích hợp với OTM là khoảng 58,36%, thấp hơn so với chỉ 2,48% hệ thống đề xuất không thu giữ CO2 (60,84%) nhưng cao hơn so với không khí thải CO2 áp suất khí quyển hệ thống SOFC lai với các đơn vị tách không khí đông lạnh trong điều kiện tương tự 0,96%. Kết quả trên cho thấy rằng hệ thống mới có mức tiêu thụ năng lượng thấp và vẫn giữ được hiệu suất hệ thống cao sau khi thu hồi CO2.
Để đáp ứng các điều kiện làm việc của đơn vị OTM, không khí 2 phải được nén trong hệ thống mới, mà kết quả trong thêm tiêu thụ năng lượng. Kể từ khi không khí 2 vẫn có áp suất cao và nhiệt độ sau khi tách O2, các nguồn bổ sung có thể được thu được bằng các tuabin khí, trong đó có thể bù đắp cho mức tiêu thụ năng lượng của máy nén. Kết quả cho thấy rằng OTM vẫn có thể cung cấp năng lượng sau khi ly O2, trong đó cho thấy những ưu điểm của OTM trong sản xuất oxy tinh khiết khi tích hợp với hệ thống điện SOFC lai. Bởi vì hệ thống OTM hấp thụ một phần của hệ thống nhiệt, tuabin hơi sản lượng điện của hệ thống mới là ít hơn so với hai hệ thống khác.
Being translated, please wait..