Results (
Vietnamese) 1:
[Copy]Copied!
Ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài hay theo ngữ cảnhCác nghiên cứu khám phá ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài hay theo ngữ cảnh trên cơ cấu vốn thường đi theo hình thức quốc tế phân tích. Những so sánh quốc tế đã nêu bật tác động của yếu tố quốc gia cụ thể trên các cơ cấu vốn không phân biệt cho dù những phân tích các nước phát triển, phát triển nền kinh tế nói chung và đặc biệt trong khu vực Châu á – Thái bình (xem Boothet Al, 2001; Deesomsak et al. năm 2004; de Jong et al., 2008). Các yếu tố theo ngữ cảnh được xác định bởi các tài liệu bao gồm tốc độ tăng trưởng GDP, sức mạnh của hệ thống pháp luật và sức mạnh liên quan của chủ nợ/cổ đông bảo vệ/quyền (de Jong et al., 2008) các yếu tố theo ngữ cảnh khác mà có xu hướng để ảnh hưởng đến kết quả và có đặc biệt là có liên quan đến bối cảnh Việt Nam là cấp độ của thị trường vốn phát triển và quyền sở hữu cấu trúc. Ví dụ, trong trường hợp trước đây bằng chứng cho Vương Quốc Anh bởi Marsh (1982) và cho Hoa Kỳ bởi người bạn và Lang (1988) hỗ trợ lý thuyết Pecking đặt hàng. Ngược lại, nghiên cứu phát triển và chuyển tiếp nền kinh tế như Trung Quốc, Ba Lan, Nga, Cộng hòa Séc và Slovakia tìm một lệnh Pecking "sửa đổi" (tức là nội bộ tài chính, công bằng và nợ) (xem Chen, năm 2004; Delcoure, 2007). Ở những nước này, dưới phát triển thị trường trái phiếu lái xe công ty để phát hành vốn chủ sở hữu cho tài chính lâu dài.Cơ cấu sở hữu là một yếu tố có thể ảnh hưởng đến cơ cấu vốn. Ví dụ, tại Châu á-Thái Bình Dương Quốc gia chẳng hạn như Indonesia và Thái Lan gia đình thống trị công ty được liệt kê là phổ biến. Cho phù hợp Witwattanakantang (1999) và Bunkanwanicha et al. (2008) thuộc tính cao tận dụng ở Thái Lan các công ty công khai được liệt kê một phần để gia đình kiểm soát lợi ích thích nợ trên vốn chủ sở hữu mới để tránh quyền sở hữu pha loãng. Ảnh hưởng khác là sở hữu nhà nước. Giang và Zingales (1995) quan sát một tác động tích cực của quyền sở hữu nhà nước vào đòn bẩy khi chính phủ phục vụ như là một người bảo lãnh nợ. Tương tự, Bradley et al. (1984) và gian hàng et al. (2001) xác nhận chính phủ ảnh hưởng đến công ty nợ chính sách. Đặc biệt, trước đây công nhận rằng cao hướng công ty thống trị ngành công nghiệp nhà nước quy định như điện hoặc airlines trong khi các chương trình tín dụng thứ hai báo cáo nhà nước cấp để lĩnh vực ưa thích (tức là nông nghiệp ở Thái Lan). Một ví dụ khác đến từ Trung Quốc mà hầu hết các công ty được liệt kê là các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước 'cổ' hoặc các doanh nghiệp nhà nước trước đây thuộc sở hữu. Chen (2004) bằng cách sử dụng dữ liệu từ năm 1995 đến năm 2000 kết luận rằng các công ty được bảo vệ khỏi phá sản của chính phủ, gây ra pecking đặt hàng và thương mại-off mô hình có hạn chế các quyền lực giải thích trong Trung Quốc. Tuy nhiên, hoàng và bài hát (2006) báo cáo một mối quan hệ không đáng kể giữa các đòn bẩy và quyền sở hữu nhà nước khi phân tích một bộ dữ liệu lớn hơn nhiều kéo dài năm 1994 đến năm 2003. Điều này có thể ngụ ý rằng 'cổ' Trung Quốc nhà đang dần dần trở nên độc lập hơn từ chính phủ.
Being translated, please wait..
