Grounded TheoryThe term ‘grounded theory’ in this case refers to Glase translation - Grounded TheoryThe term ‘grounded theory’ in this case refers to Glase Vietnamese how to say

Grounded TheoryThe term ‘grounded t

Grounded Theory
The term ‘grounded theory’ in this case refers to Glaserian grounded theory, which refers to
an intuitive and inductive process following a basic hermeneutics method approach
(Neuman, 2006). This approach to grounded theory is more relevant to this research, as
Straussian grounded theory is more closely aligned with symbolic interactionism, in which it
diverges from the basic hermeneutics approach in favour of a deep deconstruction process
in the data analysis phase (Osborne, 1994; Seldén, 2005).
Grounded theory as a process is differentiated from other research methods as it is
inductive. This means the data is collected, and constant comparative analysis is conducted
to present research findings which are used to generate new theory which adds to existing
theories. The role of literature is restricted to informing the initial research gaps. Any
comparison to the literature is conducted after the findings of the research have been
revealed (Goulding, 2005).
By using a basic hermeneutics approach, grounded theory uses traditional qualitative
research techniques, such as interviews, observation, focus groups, etc. Data collected is
subjected to constant comparative and thematic analysis in order to uncover research
findings (Jennings, 2001; Neuman, 2006).
The use of qualitative interviews allows for an exploration of the phenomenon under
scrutiny, and allows for further understanding to be developed based upon a consensus of
varied perspectives. As this research seeks to generate a description of a particular
phenomenon, the notion in grounded theory in which the data is allowed to speak for itself
allows this research to capture the different perspectives of the stakeholders to reach a
trustworthy and valid consensus of information.
A key characteristic of grounded theory is that it allows the data to speak without the heavy
influence of previous research and literature, and the conclusions drawn from the research
in the form of new theories is compared to the existing body of knowledge. In the practice
of grounded theory, it must be acknowledged that the researcher, in having to frame the
research question, will have prior understanding and exposure to literature in the field of
study. The onus is on the researcher to minimise this influence as much as possible by
allowing the data to speak with minimal influence from this pre-existing knowledge (Willis
et al., 2007). However, this potential for bias is accounted for as the researcher’s
perspective in grounded theory research is emic (internal point of view). This was deemed
most appropriate due to the findings of the preliminary study and its limitations derived
from being heavily embedded in theoretical literature
0/5000
From: -
To: -
Results (Vietnamese) 1: [Copy]
Copied!
Căn cứ lý thuyếtThuật ngữ 'căn cứ lý thuyết' trong trường hợp này đề cập đến Glaserian căn cứ lý thuyết, trong đó đề cập đếnmột quá trình trực quan và quy nạp theo một cách tiếp cận phương pháp cơ bản hermeneutics(Neuman, 2006). Cách tiếp cận này để căn cứ lý thuyết là có liên quan hơn để nghiên cứu này, như làStraussian căn cứ lý thuyết là liên kết chặt chẽ hơn với biểu tượng interactionism, trong đódiverges từ cách tiếp cận cơ bản hermeneutics ủng hộ một quá trình sâu deconstructiontrong giai đoạn phân tích dữ liệu (Osborne, năm 1994; Seldén, 2005).Căn cứ lý thuyết là một quá trình khác biệt từ các phương pháp nghiên cứu khác như nó làquy nạp. Điều này có nghĩa là các dữ liệu được thu thập và phân tích so sánh liên tục được tiến hànhđể trình bày kết quả nghiên cứu được sử dụng để tạo ra lý thuyết mới, thêm vào hiện tạilý thuyết. Vai trò của văn học là bị giới hạn để thông báo cho các nghiên cứu ban đầu khoảng trống. Bất kỳso sánh với các tài liệu được tiến hành sau khi kết quả của các nghiên cứu đãtiết lộ (Goulding, 2005).Bằng cách sử dụng một cách tiếp cận cơ bản hermeneutics, căn cứ lý thuyết sử dụng truyền thống chất lượngnghiên cứu kỹ thuật, chẳng hạn như cuộc phỏng vấn, quan sát, tập trung nhóm, vv. Dữ liệu thu thậpphải chịu liên tục phân tích so sánh và chuyên đề để khám phá các nghiên cứukết quả (Jennings, 2001; Neuman, 2006).Sử dụng chất lượng các cuộc phỏng vấn cho phép cho một thăm dò của hiện tượng dướiGiám sát, và cho phép cho sự hiểu biết hơn nữa được phát triển dựa trên một sự đồng thuận củaquan điểm khác nhau. Theo nghiên cứu này nhằm mục đích tạo ra một mô tả của một cụ thểhiện tượng, khái niệm trong căn cứ lý thuyết mà trong đó các dữ liệu được cho phép để nói cho chính nócho phép nghiên cứu này để nắm bắt các quan điểm khác nhau của các bên liên quan để đạt được mộtđáng tin cậy và hợp lệ sự đồng thuận của thông tin.Một đặc tính quan trọng của căn cứ lý thuyết là nó cho phép các dữ liệu để nói chuyện mà không nặngảnh hưởng của các nghiên cứu trước đây và văn học, và các kết luận rút ra từ nghiên cứutrong hình thức lý thuyết mới là so với cơ thể hiện kiến thức. Trong thực tếcăn cứ lý thuyết, nó phải được thừa nhận rằng các nhà nghiên cứu, có khung cácnghiên cứu câu hỏi, sẽ có trước khi sự hiểu biết và tiếp xúc với văn học trong lĩnh vựcnghiên cứu. Onus là ngày các nhà nghiên cứu để giảm thiểu ảnh hưởng càng nhiều càng tốt bằng cáchcho phép các dữ liệu để nói chuyện với tối thiểu ảnh hưởng từ kiến thức này tồn tại trước (Williset al., 2007). Tuy nhiên, tiềm năng này cho thiên vị là chiếm là của nhà nghiên cứuquan điểm nghiên cứu căn cứ lý thuyết là emic (bên trong góc). Điều này đã được coi làthích hợp nhất do những phát hiện của nghiên cứu sơ bộ và hạn chế của nó có nguồn gốctừ nặng đang được nhúng trong văn học lý thuyết
Being translated, please wait..
Results (Vietnamese) 2:[Copy]
Copied!
Căn cứ thuyết
Thuật ngữ 'lý thuyết nền tảng' trong trường hợp này đề cập đến Glaserian căn cứ lý thuyết, trong đó đề cập đến
một quá trình trực quan và quy nạp sau một phương pháp tiếp cận cơ bản thông diễn
(Neuman, 2006). Cách tiếp cận này để lý thuyết nền tảng là liên quan nhiều hơn đến nghiên cứu này, như
Strauss căn cứ lý thuyết được liên kết chặt chẽ hơn với interactionism tượng trưng, trong đó nó
phân kỳ từ cách tiếp cận thông diễn học cơ bản trong lợi của một quá trình giải cấu trúc sâu
trong giai đoạn phân tích dữ liệu (Osborne, 1994; Selden, 2005).
Grounded lý thuyết như là một quá trình được phân biệt với các phương pháp nghiên cứu khác như nó là
quy nạp. Điều này có nghĩa là các dữ liệu được thu thập, phân tích và so sánh liên tục được thực hiện
để trình bày kết quả nghiên cứu được sử dụng để tạo ra lý thuyết mới mà thêm vào hiện
lý thuyết. Vai trò của văn học được giới hạn để thông báo cho các khoảng trống nghiên cứu ban đầu. Bất kỳ
so với các tài liệu được tiến hành sau khi các kết quả của nghiên cứu đã được
tiết lộ (Goulding, 2005).
Bằng cách sử dụng một cách tiếp cận thông diễn học cơ bản, lý thuyết nền tảng sử dụng tính truyền thống
kỹ thuật nghiên cứu, chẳng hạn như các cuộc phỏng vấn, quan sát, nhóm tập trung, vv Dữ liệu thu thập được đang
bị phân tích so sánh và chuyên đề thường xuyên để phát hiện nghiên cứu
phát hiện (Jennings, 2001; Neuman, 2006).
việc sử dụng các cuộc phỏng vấn định tính cho phép cho một thăm dò của hiện tượng dưới
sự giám sát, và cho phép hiểu biết hơn nữa để được phát triển dựa trên một sự đồng thuận của các
quan điểm khác nhau. Như nghiên cứu này tìm cách để tạo ra một mô tả của một cụ thể
hiện tượng, khái niệm trong lý thuyết nền tảng trong đó dữ liệu được phép nói cho chính nó
cho phép nghiên cứu này để nắm bắt những quan điểm khác nhau của các bên liên quan để đạt được một
sự đồng thuận đáng tin cậy và hợp lệ của thông tin.
Một đặc điểm quan trọng của lý thuyết nền tảng là nó cho phép các dữ liệu để nói chuyện mà không nặng
ảnh hưởng của nghiên cứu trước đây và văn học, và các kết luận rút ra từ các nghiên cứu
trong các hình thức của các lý thuyết mới được so sánh với các quan điểm hiện có của kiến thức. Trong thực tiễn
của lý thuyết nền tảng, nó phải được thừa nhận rằng các nhà nghiên cứu, trong có để khung
câu hỏi nghiên cứu, sẽ có sự hiểu biết trước và tiếp xúc với văn học trong lĩnh vực
nghiên cứu. Các trách nhiệm này thuộc về các nhà nghiên cứu để giảm thiểu ảnh hưởng này càng nhiều càng tốt bằng cách
cho phép các dữ liệu để nói chuyện với ảnh hưởng tối thiểu từ kiến thức từ trước này (Willis
et al., 2007). Tuy nhiên, tiềm năng này cho thiên vị được hạch toán của nhà nghiên cứu
quan điểm trong nghiên cứu lý thuyết nền tảng là emic (quan điểm nội tại). Đây được coi là
thích hợp nhất do những phát hiện của nghiên cứu sơ bộ và hạn chế của nó bắt nguồn
từ được nhiều nhúng trong văn học lý thuyết
Being translated, please wait..
 
Other languages
The translation tool support: Afrikaans, Albanian, Amharic, Arabic, Armenian, Azerbaijani, Basque, Belarusian, Bengali, Bosnian, Bulgarian, Catalan, Cebuano, Chichewa, Chinese, Chinese Traditional, Corsican, Croatian, Czech, Danish, Detect language, Dutch, English, Esperanto, Estonian, Filipino, Finnish, French, Frisian, Galician, Georgian, German, Greek, Gujarati, Haitian Creole, Hausa, Hawaiian, Hebrew, Hindi, Hmong, Hungarian, Icelandic, Igbo, Indonesian, Irish, Italian, Japanese, Javanese, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Korean, Kurdish (Kurmanji), Kyrgyz, Lao, Latin, Latvian, Lithuanian, Luxembourgish, Macedonian, Malagasy, Malay, Malayalam, Maltese, Maori, Marathi, Mongolian, Myanmar (Burmese), Nepali, Norwegian, Odia (Oriya), Pashto, Persian, Polish, Portuguese, Punjabi, Romanian, Russian, Samoan, Scots Gaelic, Serbian, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenian, Somali, Spanish, Sundanese, Swahili, Swedish, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thai, Turkish, Turkmen, Ukrainian, Urdu, Uyghur, Uzbek, Vietnamese, Welsh, Xhosa, Yiddish, Yoruba, Zulu, Language translation.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: