1 Introduction Many studies have emphasised the need to develop a fit  translation - 1 Introduction Many studies have emphasised the need to develop a fit  Vietnamese how to say

1 Introduction Many studies have em

1 Introduction
Many studies have emphasised the need to develop a fit between business strategy and information technology
(IT) strategy. Yet many firms struggle to achieve alignment and, to date, there has been relatively few studies of alignment and in particular the factors that influence the alignment in small and medium sized firms (SMEs). Reviews of accounting and information systems literature show that many studies have examined the alignment between contingency factors and accounting information systems (AIS) design (Chong & Chong 1997; Chenhall & Langfield-Smith 1998; Mia & Clarke 1999) or the alignment between contingency factors and IT sophistication (Weill & Olson 1989; Henderson & Venkatraman 1993; Bergeron et al. 2001) particularly among large firms. Chang and Jevons Lee (1992) argued that effects from these factors can be measured by the degree of a firm's information requirements, which according to Bolon (1998) would be made available by firms investing in a more sophisticated information processing system. However, with the exceptions of El Louadi (1998) and Rhee (2001), studies that focus on the alignment between information requirements and information processing capacity are very rare, especially in the context of SMEs.
This study attempted to fill this gap by examining factors that influence AIS alignment in the specific context of Malaysian manufacturing SMEs. This objective was achieved by firstly clustering the SMEs according to whether or not there was alignment between accounting information requirements (represented by AIS requirements) and accounting information system processing capacity (represented by AIS capacity). The alignment groups were then tested against potential influence factors to determine their relationships with AIS alignment. This study focused on AIS alignment because AIS (which covers both the financial and managerial aspects of accounting information) is an important component of modern information systems within SMEs (Mitchell et al. 2000). This exploratory study also aimed to identify fruitful areas of future research in the areas of accounting and information systems.
The status of AIS alignment among manufacturing SMEs in Malaysia is worthy of study for several reasons.
First, Malaysia is seeking rapid developments of its IT environment. The establishment of the Multimedia Super Corridor (MSC) and the National IT Agenda (NITA) in 1996 placed a priority on Malaysia to create a new generation of knowledge workers. These efforts are consistent with the increasing globalisation of demand and the utilisation of IT as a competitive weapon. Second, SMEs represent about 91% of the total manufacturing establishments, thus having a significant role in the country's industrialisation program (Ismail & King 2005). Despite this, the extent, mode, and quality of IT adoption among Malaysian SMEs is still an issue of great concern. The usage of accounting information and the utilisation of IT for business decisions were still lagging behind those of developed countries (Ismail et al. 2003). Thus, a study investigating the factors influencing AIS alignment may deepen current understanding of the effectiveness of information systems implementation among firms. It may also highlight the effectiveness of the policies and directions set by the Malaysian government. While this is deemed crucial for Malaysia, it is also important for other developing countries of similar interest and environment.
The next section reviews existing literature on AIS and information system development in SMEs. It shows that
there are rather contradictory findings about AIS design in SMEs and there are ambiguous findings about the strategic use of IT in SMEs, which justifies further investigation into the fit of AIS requirements with AIS capacity. The next section will explain the development of the research model, involving six hypotheses about six variables which are identified as likely to be associated with alignment, and explains the chosen method for measuring alignment. In the next section, details of the sample used are provided. Then cluster analysis is used to identify two alignment groups: those with AIS alignment and those which are not-aligned. These two groups are used to test the research hypotheses. In the next section the results are discussed, the theoretical and practical implications are described and the limitations of the study are identified.
0/5000
From: -
To: -
Results (Vietnamese) 1: [Copy]
Copied!
1 giới thiệu
nhiều nghiên cứu đã nhấn mạnh sự cần thiết để phát triển một sự phù hợp giữa chiến lược kinh doanh và chiến lược
(IT) công nghệ thông tin. Nhưng nhiều công ty phải đấu tranh để đạt được sự liên kết, và đến nay, đã có tương đối ít nghiên cứu về sự liên kết và đặc biệt các yếu tố ảnh hưởng liên kết trong vừa và nhỏ có kích thước công ty (SME). Nhận xét của văn học hệ thống kế toán và thông tin hiển thị rằng nhiều nghiên cứu đã kiểm tra sự liên kết giữa các yếu tố dự phòng và hệ thống thông tin kế toán (AIS) thiết kế (Chong & Chong 1997; Chenhall & Langfield-Smith năm 1998; Mia & Clarke 1999) hoặc liên kết giữa các yếu tố bất ngờ và tinh tế CNTT (Weill & Olson năm 1989; Henderson & thanhmai 1993; Bergeron et al. 2001) đặc biệt là trong số các công ty lớn. Chang và Jevons Lee (1992) cho các hiệu ứng từ những yếu tố này có thể được đo bằng mức độ yêu cầu thông tin của một công ty, mà theo Bolon (1998) sẽ được làm sẵn có của công ty đầu tư vào một xử lý hệ thống thông tin phức tạp hơn. Tuy nhiên, với ngoại lệ của El Louadi (1998) và Rhee (2001), nghiên cứu tập trung vào sự liên kết giữa các yêu cầu thông tin và khả năng xử lý thông tin là rất hiếm, đặc biệt là trong bối cảnh của DNN & v.
Này nghiên cứu đã cố gắng để lấp đầy khoảng cách này bằng cách kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự liên kết trường quốc tế Mỹ trong bối cảnh cụ thể của sản xuất Malaysia DNN & v. Mục tiêu này đã được thực hiện bởi thứ nhất cụm các DNVVN theo hay không có là sự liên kết giữa các yêu cầu thông tin kế toán (đại diện trường quốc tế Mỹ yêu cầu) và kế toán thông tin hệ thống xử lý công suất (đại diện trường quốc tế Mỹ công suất). Các nhóm liên kết sau đó đã được thử nghiệm chống lại các yếu tố ảnh hưởng tiềm năng cần xác định các mối quan hệ với trường quốc tế Mỹ chỉnh. Nghiên cứu này tập trung vào sự liên kết trường quốc tế Mỹ vì trường quốc tế Mỹ (trong đó bao gồm cả hai khía cạnh tài chính và quản lý thông tin kế toán) là một thành phần quan trọng của hệ thống thông tin hiện đại trong lĩnh vực DNNVV (Mitchell et al. năm 2000). Nghiên cứu thăm dò này cũng nhằm mục đích để xác định các khu vực hiệu quả của các nghiên cứu trong tương lai trong các lĩnh vực kế toán và thông tin hệ thống.
Tình trạng của trường quốc tế Mỹ chỉnh trong số sản xuất DNN & v trong Malaysia là xứng đáng của nghiên cứu vì nhiều lý do.
Đầu tiên, Malaysia là tìm kiếm sự phát triển nhanh chóng của môi trường CNTT. Việc thành lập của Multimedia Super Corridor (MSC) và các quốc gia đó chương trình nghị sự (NITA) năm 1996 đặt một ưu tiên trên Malaysia để tạo ra một thế hệ mới của người lao động kiến thức. Những nỗ lực này là phù hợp với toàn cầu hóa ngày càng tăng nhu cầu và sử dụng của nó như một vũ khí cạnh tranh. Thứ hai, DNVVN đại diện cho khoảng 91% các cơ sở sản xuất tất cả, do đó có một vai trò quan trọng trong chương trình công nghiệp hoá của đất nước (Ismail & vua năm 2005). Mặc dù vậy, mức độ, chế độ, và chất lượng của nó thông qua trong lĩnh vực DNNVV Malaysia vẫn là một vấn đề của mối quan tâm lớn. Việc sử dụng thông tin kế toán và sử dụng của nó cho các quyết định kinh doanh vẫn còn tụt hậu đằng sau những quốc gia phát triển (Ismail et al. năm 2003). Do đó, một nghiên cứu điều tra những yếu tố ảnh hưởng đến sự liên kết trường quốc tế Mỹ có thể làm sâu sắc thêm sự hiểu biết hiện tại về hiệu quả của việc thực hiện hệ thống thông tin trong số công ty. Nó cũng có thể làm nổi bật hiệu quả của các chính sách và hướng dẫn thiết lập bởi chính phủ Malaysia. Trong khi điều này được coi là rất quan trọng cho Malaysia, đó cũng là quan trọng cho các nước đang phát triển khác tương tự như lãi suất và môi trường.
Phần tiếp theo giá các tài liệu hiện có trên trường quốc tế Mỹ và phát triển hệ thống thông tin trong lĩnh vực DNNVV. Nó cho thấy rằng
có các kết quả khá mâu thuẫn về trường quốc tế Mỹ thiết kế trong lĩnh vực DNNVV và có là kết quả mơ hồ về việc sử dụng chiến lược của nó trong lĩnh vực DNNVV, mà biện minh cho tiếp tục cuộc điều tra vào phù hợp của trường quốc tế Mỹ yêu cầu với công suất trường quốc tế Mỹ. Phần tiếp theo sẽ giải thích sự phát triển của các mô hình nghiên cứu, liên quan đến sáu giả thuyết về sáu biến được xác định là có khả năng được liên kết với sự liên kết, và giải thích phương pháp được lựa chọn để đo sự liên kết. Trong phần tiếp theo, các chi tiết của mẫu được sử dụng được cung cấp. Sau đó phân tích cụm được sử dụng để xác định hai liên kết Nhóm: những người có liên kết trường quốc tế Mỹ và những người mà không liên kết. Hai nhóm này được sử dụng để thử nghiệm giả thuyết nghiên cứu. Trong phần tiếp theo kết quả sẽ được thảo luận, các tác động về lý thuyết và thực hành được mô tả và những hạn chế của nghiên cứu được xác định.
Being translated, please wait..
Results (Vietnamese) 2:[Copy]
Copied!
1 Giới thiệu
Nhiều nghiên cứu đã nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển một chiến lược kinh doanh phù hợp giữa công nghệ thông tin
chiến lược (CNTT). Tuy nhiên, nhiều công ty đấu tranh để đạt được sự liên kết và, cho đến nay, đã có tương đối ít các nghiên cứu về sự liên kết và đặc biệt là các yếu tố ảnh hưởng đến sự liên kết của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). Ý kiến của văn học hệ thống kế toán và các thông tin cho thấy rằng nhiều nghiên cứu đã kiểm tra sự liên kết giữa các yếu tố dự phòng và hệ thống thông tin kế toán (AIS) thiết kế (Chong Chong & 1997; Chenhall & Langfield-Smith năm 1998; Mia & Clarke 1999) hoặc sự liên kết giữa các yếu tố bất ngờ và tinh tế CNTT (Weill & Olson 1989; Henderson & Venkatraman năm 1993;. Bergeron và cộng sự 2001) đặc biệt là các công ty lớn. Chang và Jevons Lee (1992) lập luận rằng tác động từ những yếu tố này có thể được đo bằng mức độ yêu cầu thông tin của một công ty, mà theo Bolon (1998) sẽ được cung cấp bởi các công ty đầu tư vào một hệ thống xử lý thông tin phức tạp hơn. Tuy nhiên, với trường hợp ngoại lệ của El Louadi (1998) và Rhee (2001), các nghiên cứu tập trung vào sự liên kết giữa các yêu cầu thông tin và năng lực xử lý thông tin là rất hiếm, đặc biệt là trong bối cảnh các doanh nghiệp nhỏ.
Nghiên cứu này đã cố gắng để lấp đầy khoảng trống này bằng cách kiểm tra yếu tố ảnh hưởng kết AIS trong bối cảnh cụ thể của doanh nghiệp nhỏ sản xuất của Malaysia. Mục tiêu này đã đạt được bằng trước hết là phân nhóm các DNVVN theo hay không có sự liên kết giữa các yêu cầu kế toán thông tin (đại diện bởi các yêu cầu AIS) và chiếm công suất chế biến hệ thống thông tin (đại diện bởi công suất AIS). Các nhóm liên kết sau đó được thử nghiệm chống lại các yếu tố ảnh hưởng tiềm năng để xác định mối quan hệ của họ với sự liên kết AIS. Nghiên cứu này tập trung vào liên kết AIS vì AIS (trong đó bao gồm cả các khía cạnh tài chính và quản lý của thông tin kế toán) là một thành phần quan trọng của hệ thống thông tin hiện đại trong doanh nghiệp nhỏ (Mitchell et al. 2000). Nghiên cứu thăm dò này cũng nhằm xác định các khu vực có kết quả nghiên cứu trong tương lai trong các lĩnh vực hệ thống kế toán và thông tin.
Tình trạng của các DNVVN liên kết AIS sản xuất tại Malaysia là xứng đáng nghiên cứu vì nhiều lý do.
Đầu tiên, Malaysia đang tìm kiếm sự phát triển nhanh chóng của môi trường CNTT của mình . Việc thành lập Multimedia Super Corridor (MSC) và Quốc CNTT Chương trình nghị sự (NITA) vào năm 1996 được đặt ưu tiên vào Malaysia để tạo ra một thế hệ mới của công nhân tri thức. Những nỗ lực này phù hợp với toàn cầu hóa ngày càng tăng của nhu cầu và việc sử dụng CNTT như là một vũ khí cạnh tranh. Thứ hai, các DNVVN chiếm khoảng 91% tổng số cơ sở sản xuất, do đó có một vai trò quan trọng trong chương trình công nghiệp hóa của đất nước (Ismail & King 2005). Mặc dù vậy, mức độ, chế độ, và chất lượng của CNTT thông qua các DNVVN Malaysia vẫn là một vấn đề được quan tâm. Việc sử dụng thông tin kế toán và việc sử dụng CNTT cho các quyết định kinh doanh vẫn còn tụt hậu so với các nước phát triển (Ismail et al. 2003). Do đó, một nghiên cứu điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến kết AIS có thể làm sâu sắc thêm sự hiểu biết hiện tại về tính hiệu quả của hệ thống thông tin thực hiện giữa các công ty. Nó cũng có thể làm nổi bật hiệu quả của các chính sách và hướng dẫn thiết lập bởi chính phủ Malaysia. Trong khi điều này được coi là rất quan trọng cho Malaysia, nó cũng quan trọng đối với các nước đang phát triển khác quan tâm và môi trường tương tự.
Các ý kiến phần tiếp theo tài liệu hiện có trên trường Quốc tế Mỹ và phát triển hệ thống thông tin trong doanh nghiệp nhỏ. Nó cho thấy rằng
có những kết quả khá trái ngược nhau về trường Quốc tế Mỹ thiết kế trong các DNVVN và có kết quả rõ ràng về việc sử dụng chiến lược của CNTT trong các DNVVN, trong đó biện minh cho điều tra thêm vào phù hợp với các yêu cầu trường Quốc tế Mỹ với công suất AIS. Phần tiếp theo sẽ giải thích sự phát triển của các mô hình nghiên cứu, liên quan đến sáu giả thuyết về sáu biến được xác định là có khả năng được liên kết với sự liên kết, và giải thích các phương pháp lựa chọn để đo sự liên kết. Trong phần tiếp theo, chi tiết của mẫu sử dụng được cung cấp. Sau đó phân tích cụm được sử dụng để xác định hai nhóm liên kết: liên kết với những trường Quốc tế Mỹ và những người mà không liên kết. Hai nhóm được sử dụng để kiểm tra các giả thuyết nghiên cứu. Trong phần tiếp theo các kết quả sẽ được thảo luận, các tác động về mặt lý thuyết và thực tế được mô tả và những hạn chế của nghiên cứu được xác định.
Being translated, please wait..
 
Other languages
The translation tool support: Afrikaans, Albanian, Amharic, Arabic, Armenian, Azerbaijani, Basque, Belarusian, Bengali, Bosnian, Bulgarian, Catalan, Cebuano, Chichewa, Chinese, Chinese Traditional, Corsican, Croatian, Czech, Danish, Detect language, Dutch, English, Esperanto, Estonian, Filipino, Finnish, French, Frisian, Galician, Georgian, German, Greek, Gujarati, Haitian Creole, Hausa, Hawaiian, Hebrew, Hindi, Hmong, Hungarian, Icelandic, Igbo, Indonesian, Irish, Italian, Japanese, Javanese, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Korean, Kurdish (Kurmanji), Kyrgyz, Lao, Latin, Latvian, Lithuanian, Luxembourgish, Macedonian, Malagasy, Malay, Malayalam, Maltese, Maori, Marathi, Mongolian, Myanmar (Burmese), Nepali, Norwegian, Odia (Oriya), Pashto, Persian, Polish, Portuguese, Punjabi, Romanian, Russian, Samoan, Scots Gaelic, Serbian, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenian, Somali, Spanish, Sundanese, Swahili, Swedish, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thai, Turkish, Turkmen, Ukrainian, Urdu, Uyghur, Uzbek, Vietnamese, Welsh, Xhosa, Yiddish, Yoruba, Zulu, Language translation.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: