Open main menu
Edit
Watch this page
Ho Chi Minh City
"HCMC" and "Saigon" redirect here. For other uses, see HCMC (disambiguation) and Saigon (disambiguation).
Ho Chi Minh City
Thành phố Hồ Chí Minh
Sài Gòn
Municipality
Thành phố trực thuộc trung ương
Nickname(s): Paris of the Orient, Pearl of the Far East
Location in Vietnam and Southern Vietnam
Location in Vietnam and Southern Vietnam
Coordinates: 10°46′36.8″N 106°42′02.9″E
Country Vietnam Vietnam
Founded as Gia Định 1698
Renamed to Ho Chi Minh City 1976
Demonym Saigonese
Government
• Secretary of Communist Party Đinh La Thăng
• Chairman of People's Committee Nguyễn Thành Phong
• Chairman of People's Coucil Nguyễn Thị Quyết Tâm
Area[1]
• Total 2,095.5 km2 (809.23 sq mi)
Elevation 19 m (63 ft)
Population (2015)[1]
• Total 8,224,400
• Rank 1st
• Density 3,900/km2 (10,000/sq mi)
Time zone ICT (UTC+07:00)
Area codes 28
GDP (PPP) 2014 estimate[2]
- Total US$ 71.1 billion
- Per capita US$ 8,660
GDP (nominal) 2015 estimate[3]
- Total US$ 44.3 billion
- Per capita US$ 5,538
Website hochiminhcity.gov.vn
Ho Chi Minh City (Vietnamese: Thành phố Hồ Chí Minh; IPA: [tʰan fə ho̞˧˩ t͡ɕɪj˧ mɪ̈n˧]), formerly named and still also referred to as Saigon (Vietnamese: Sài Gòn; IPA: [sâj ɣɔ̂ŋ], French: Saïgon), is the largest city in Vietnam. It was once known as Prey Nokor, an important Khmer seaport prior to annexation by the Vietnamese in the 17th century. Under the name Saigon, it was the capital of the French colony of Cochinchina and later of the independent republic of South Vietnam 1955–75. On 2 July 1976, Saigon merged with the surrounding Gia Định Province and was officially renamed Ho Chi Minh City after revolutionary leader Hồ Chí Minh (although the name Sài Gòn is still unofficially widely used).[4]
The metropolitan area, which consists of the Ho Chi Minh City metropolitan area, Thủ Dầu Một, Dĩ An, Biên Hòa and surrounding towns, is populated by more than 9 million people,[nb 1] making it the most populous metropolitan area[5] in Vietnam. The city's population is expected to grow to 13.9 million in 2025.[6]
The Ho Chi Minh City Metropolitan Area, a metropolitan area covering most parts of the Southeast region plus Tiền Giang Province and Long An Province under planning, will have an area of 30,000 square kilometres (12,000 sq mi) with a population of 20 million inhabitants by 2020.[7] According to the Mercer Human Resource Consulting, Economist Intelligence Unit and ECA International, Ho Chi Minh City is ranked 132 on the list of world's most expensive cities for expatriate employees.
Etymology
History
Geography Edit
Bình Quới in Bình Thạnh District
Ho Chi Minh City is located in the southeastern region of Vietnam, 1,760 km (1,090 mi) south of Hanoi. The average elevation is 19 metres (62 ft) above sea level. It borders Tây Ninh Province and Bình Dương Province to the north, Đồng Nai Province and Bà Rịa–Vũng Tàu Province to the east, Long An Province to the west and the South China Sea to the south with a coast 15 km (9 mi) long. The city covers an area of 2,095 km2 (809 sq mi or 0.63% of the surface of Vietnam), extending up to Củ Chi District (12 mi or 19 km from the Cambodian border) and down to Cần Giờ on the South China Sea. The distance from the northernmost point (Phú Mỹ Hưng Commune, Củ Chi District) to the southernmost one (Long Hòa Commune, Cần Giờ District) is 102 km (63 mi), and from the easternmost point (Long Bình ward, District Nine) to the westernmost one (Bình Chánh Commune, Bình Chánh District) is 47 km (29 mi).[citation needed]
Climate Edit
The city has a tropical climate, specifically a tropical wet and dry climate, with an average humidity of 78–82%.[25] The year is divided into two distinct seasons.[25] The rainy season, with an average rainfall of about 1,800 millimetres (71 in) annually (about 150 rainy days per year), usually begins in May and ends in late October.[25] The dry season lasts from December to April.[25] The average temperature is 28 °C (82 °F), with little variation throughout the year.[25] The highest temperature recorded was 40.0 °C (104 °F) in April while the lowest temperature recorded was 13.8 °C (57 °F) in January.[25] On average, the city experiences between 2,400 to 2,700 hours of sunshine per year.[25]
Results (
Vietnamese) 1:
[Copy]Copied!
Mở menu chính Chỉnh sửaXem Trang nàyTP. Hồ Chí Minh"Hồ chí minh" và "Sài Gòn" chuyển hướng ở đây. Các ứng dụng khác, xem TP. Hồ Chí Minh (định hướng) và Sài Gòn (định hướng).TP. Hồ Chí MinhThành phố Hồ Chí MinhSài GònĐô thịThành phố rục thuộc trung ươngBiệt danh: Paris của phương Đông, viên ngọc của viễn đôngVị trí tại Việt Nam và miền Nam Việt NamVị trí tại Việt Nam và miền Nam Việt NamTọa độ: 10 ° 46′36. 8″N 106 ° 42′02. 9″EĐất nước Việt Nam Việt NamĐược thành lập như là Gia Định 1698Được đổi tên thành thành phố Hồ Chí Minh năm 1976Demonym riêuChính phủ • Bí thư của Đảng Cộng sản Đinh La Thăng • Chủ tịch Ủy ban nhân dân Nguyễn Thành Phong • Chủ tịch của của người Coucil Nguyễn Thị Quyết TâmDiện tích [1] • Tất cả 2,095.5 km2 (809.23 sq mi)Độ cao 19 m (63 ft)Dân số (2015) [1] • Tổng số 8,224,400 • Xếp hạng 1st • Mật độ 3.900 km2 (10.000/sq mi)Thời gian zone ICT (UTC + 07:00)Mã vùng 28GDP (theo PPP) năm 2014 ước tính [2] -Tổng số 71.1 tỉ đô la Mỹ -US$ 8,660 bình quân đầu ngườiƯớc tính GDP (danh nghĩa) 2015 [3] -Tổng số 44,3 tỷ USD -Trên đầu US$ 5.538 ngườiTrang web hochiminhcity.gov.vnTP. Hồ Chí Minh (Việt Nam: Thành phố Hồ Chí Minh; IPA: [tʰan fə ho̞˧˩ t͡ɕɪj˧ mɪ̈n˧]), tên cũ là và vẫn còn gọi là Saigon (tiếng Việt: Sài Gòn; IPA: [sâj ɣɔ̂ŋ], tiếng Pháp: Saïgon), là thành phố lớn nhất ở Việt Nam. Nó từng được gọi là Prey Nokor, một hải cảng Khmer quan trọng trước khi sát nhập của người Việt Nam ở thế kỷ 17. Dưới tên Saigon, nó là thủ phủ của thuộc địa Pháp Nam Kỳ và sau đó của độc lập nước Cộng hòa của miền Nam Việt Nam 1955-75. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Sài Gòn được sáp nhập với tỉnh Định Gia lân cận và đã chính thức được đổi tên thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng Hồ Chí Minh (mặc dù cái tên Sài Gòn vẫn còn không chính thức được sử dụng). [4]Vùng đô thị, bao gồm thành phố Hồ Chí Minh khu vực đô thị, Thủ Dầu Một, Dĩ An, Biên Hòa và xung quanh thành phố, có dân cư hơn 9 triệu người, [nb 1] khiến nó là khu vực đô thị đông dân nhất [5] tại Việt Nam. Dân số của thành phố dự kiến sẽ phát triển đến 13.9 triệu USD vào năm 2025. [6]Khu vực đô thị thành phố Hồ Chí Minh, một vùng đô thị bao gồm hầu hết các bộ phận của khu vực đông nam cộng với tỉnh Tiền Giang và tỉnh Long An theo kế hoạch, sẽ có diện tích 30.000 kilômét vuông (12.000 dặm vuông) với dân số 20 triệu người 2020. [7] theo cho Mercer nhân tài nguyên tư vấn, Economist Intelligence Unit và quốc tế ECA, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam được xếp hạng 132 trên danh sách các thành phố đắt nhất thế giới cho các nhân viên người nước ngoài.Danh từ Lịch sử Chỉnh sửa địa lýBình Quới thuộc quận Bình ThạnhTP. Hồ Chí Minh nằm trong vùng đông nam của Việt Nam, 1.760 km (1.090 mi) về phía nam của Hanoi. Độ cao trung bình là 19 mét (62 ft) trên mực nước biển. Nó giáp với tỉnh Tây Ninh và tỉnh Bình Dương về phía bắc, tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu tỉnh ở phía đông, tỉnh Long An về phía Tây và biển Đông về phía Nam với bờ biển 15 km (9 mi) dài. Thành phố nằm trên một diện tích 2.095 km2 (809 sq mi hay 0,63% bề mặt của Việt Nam), mở rộng lên đến Củ Chi huyện (12 mi hoặc 19 km từ biên giới Campuchia) và xuống Cần Giờ trên biển Nam Trung Quốc. Khoảng cách từ điểm cực Bắc (thị trấn Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi) đến cực Nam một (xã Long Hòa, huyện Cần Giờ) là gần ở khoảng cách 63 m (102 dặm), và từ cực đông điểm (Long Bình phường, Quận 9) đến điểm cực Tây một (xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh) là 47 km (29 dặm). [cần dẫn nguồn]Khí hậu chỉnh sửaThành phố có khí hậu nhiệt đới, đặc biệt một ẩm ướt và khô khí hậu nhiệt đới, với một độ ẩm trung bình là 78-82%. [25] năm được chia thành hai mùa rõ rệt. [25] mùa mưa, với lượng mưa trung bình của khoảng 1.800 mm (71) mỗi năm (khoảng 150 ngày mưa mỗi năm), thường bắt đầu vào tháng năm và kết thúc vào cuối tháng mười. [25] mùa khô kéo dài từ tháng mười hai-tháng tư. [25] nhiệt độ trung bình là 28 ° C (82 ° F), với rất ít thay đổi trong suốt năm. [25] nhiệt độ cao nhất được ghi nhận là 40,0 ° C (104 ° F) trong tháng tư trong khi nhiệt độ thấp nhất được ghi nhận là 13,8 ° C (57 ° F) trong tháng Giêng. [25] trên trung bình, thành phố kinh nghiệm giữa 2.400 đến 2.700 giờ nắng mỗi năm. [25]
Being translated, please wait..

Results (
Vietnamese) 2:
[Copy]Copied!
Mở trình đơn chính Sửa Xem trang này Thành phố Hồ Chí Minh "TP Hồ Chí Minh" và "Sài Gòn" chuyển hướng ở đây. Đối với các ứng dụng khác, xem Tp.HCM (định hướng) và Sài Gòn (định hướng). Thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh Sài Gòn Thành phố Thành phố trực thuộc trung ương Nickname (s): Paris của phương Đông, Hòn ngọc Viễn Đông Vị trí trong Việt Nam và Nam Việt Nam Vị trí trong Việt Nam và miền Nam Việt Nam Tọa độ: 10 ° 46'36.8 "N 106 ° 42'02.9" E Nước Việt Nam Việt Nam thành lập như Gia Định năm 1698 đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh năm 1976 Demonym Sài Gòn Chính phủ • Thư ký của Đảng Cộng Đinh La Thăng • Chủ tịch Ủy ban Nguyễn Thành Phong nhân dân • Chủ tịch Coucil Nguyễn Thị Quyết Tâm nhân dân Diện tích [1] • Tổng số 2,095.5 km2 (809,23 dặm vuông) độ cao 19 m (63 ft) dân số (2015) [1] • Tổng 8.224.400 • Rank 1 • Mật độ 3.900 / km2 (10.000 / sq mi) Thời gian khu công nghệ thông tin (UTC + 07: 00) mã vùng 28 GDP (PPP) năm 2014 ước tính [2] - Tổng cộng Mỹ 71100000000 $ - bình quân đầu người của Mỹ $ 8660 GDP (nominal ) 2015 ước tính [3] - Tổng cộng Mỹ 44300000000 $ - trung bình mỗi đầu người $ 5,538 Mỹ Trang hochiminhcity.gov.vn Thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam: Thành phố Hồ Chí Minh; IPA: [Tân fə hớ t͡ɕɪj˧ mɪ̈n˧] ), trước đây có tên và vẫn còn được gọi là Sài Gòn (Việt: Sài Gòn; IPA: [SAJ ɣɔŋ], tiếng Pháp: Thành Phô Bác), là thành phố lớn nhất ở Việt Nam. Nó đã từng được gọi là Prey Nokor, một cảng biển Khmer quan trọng trước khi sáp nhập vào Việt Nam trong thế kỷ 17. Dưới cái tên Sài Gòn, nó là thủ đô của các thuộc địa của Pháp tại Nam Kỳ và sau này của các nước cộng hòa độc lập của Nam Việt Nam 1955-1975. Ngày 02 Tháng 7 năm 1976, Sài Gòn sáp nhập với các tỉnh lân cận Gia Định và được chính thức đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh sau khi lãnh tụ cách mạng Hồ Chí Minh (mặc dù tên Sài Gòn vẫn không chính thức được sử dụng rộng rãi). [4] Các khu vực đô thị, trong đó bao gồm khu vực thành phố Hồ Chí Minh thành phố, Thủ Dầu Một, Dĩ An, Biên Hòa và thị trấn xung quanh, là dân cư của hơn 9 triệu người, [nb 1] làm cho nó khu vực đô thị đông dân nhất [5] ở Việt Nam. Dân số của thành phố dự kiến sẽ tăng lên 13,9 triệu vào năm 2025. [6] Các thành phố Hồ Chí Minh Metropolitan Area, một khu vực đô thị bao gồm hầu hết các bộ phận của khu vực Đông Nam cộng với tỉnh Tiền Giang và tỉnh Long An theo quy hoạch, sẽ có một diện tích 30.000 kilômét vuông (12.000 dặm vuông) với dân số 20 triệu dân vào năm 2020. [7] theo Resource Consulting Mercer Human, Economist Intelligence Unit và ECA International, Thành phố Hồ Chí Minh được xếp hạng 132 trong danh sách của thế giới đắt nhất thành phố cho người lao động nước ngoài. Từ nguyên Lịch sử Địa lý Sửa Bình Quới ở Bình Thạnh Quận Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở khu vực đông nam của Việt nam, 1.760 km (1.090 dặm) về phía nam của Hà Nội. Độ cao trung bình là 19 mét (62 ft) trên mực nước biển. Giáp tỉnh Tây Ninh và tỉnh Bình Dương ở phía bắc, tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu về phía đông, tỉnh Long An về phía tây và Biển Đông về phía nam với một bờ biển 15 km (9 dặm) Dài. Thành phố này có diện tích 2.095 km2 (809 sq mi hay 0,63% của bề mặt của Việt Nam), mở rộng lên đến Huyện Củ (12 dặm hay 19 km từ biên giới Campuchia) và xuống đến Cần Giờ trên Biển Đông. Khoảng cách từ điểm cực bắc (xã Hưng Mỹ Phú, Củ Chi Quận) đến một trong những nam (xã Hòa Long, huyện Cần Giờ) là 102 km (63 dặm), và từ điểm cực Đông (phường Long Bình, Quận Chín) đến một tây (xã Chánh bình, huyện bình Chánh) là 47 km (29 dặm). [cần dẫn nguồn] khí hậu Sửa Thành phố có khí hậu nhiệt đới, đặc biệt có khí hậu ẩm và khô nhiệt đới, với độ ẩm trung bình 78-82 %. [25] năm được chia thành hai mùa rõ rệt. [25] mùa mưa, với lượng mưa trung bình khoảng 1.800 mm (71 in) hàng năm (khoảng 150 ngày mưa mỗi năm), thường bắt đầu vào tháng và kết thúc vào cuối tháng Mười. [25] mùa khô kéo dài từ tháng đến tháng Tư. [25] nhiệt độ trung bình là 28 ° C (82 ° F), với ít biến đổi trong suốt cả năm. [25] nhiệt độ cao nhất được ghi nhận là 40,0 ° C ( 104 ° F) trong tháng tư trong khi nhiệt độ thấp nhất được ghi nhận là 13,8 ° C (57 ° F) trong tháng Giêng. [25] Trung bình, những kinh nghiệm thành phố giữa 2.400 đến 2.700 giờ nắng mỗi năm. [25]
Being translated, please wait..
