Results (
Vietnamese) 1: 
[Copy]Copied!
 
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được công nhận như là một nguồn lực quan trọng phát triển kinh tế. Nhiều nghiên cứu đã cho rằng dòng vốn FDI có thể lấp đầy khoảng cách giữa đầu tư mong muốn và trong nước huy động tiết kiệm (Todaro và Smith, năm 2003, Hayami, 2001). Nó cũng có thể tăng thuế doanh thu và cải thiện quản lý, công nghệ, cũng như lao động kỹ năng trong máy chủ lưu trữ quốc gia (Todaro và Smith, năm 2003, Hayami, 2001). Ngoài ra, FDI có thể giúp nước chủ nhà để thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn của kém phát triển (Hayami, 2001). Được nhận thức của các lợi ích của FDI, Việt Nam đã thiết kế và thực hiện các chính sách có liên quan để tạo ra môi trường hiếu khách và mở cửa cho FDI. FDI là một trong những tính năng quan trọng nhất của Việt Nam di chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch hướng tới một nền kinh tế thị trường. Kể từ khi luật đầu tiên về đầu tư nước ngoài vào cuối năm 1987 là cấp tình trạng pháp lý cho các luồng vào FDI, Việt Nam đã rất nhiều thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư. Luồng vào FDI vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng trong thập niên 1990 và trong mười năm đầu tiên của thế kỷ hai mươi. Đặc biệt, FDI đổ vào Việt Nam đã tăng lên đáng kể từ 0,32 tỷ USD vào năm 1988 để 14,69 cho tỷ USD trong năm 2011. Hơn 20 năm qua, FDI sẽ trở thành một yếu tố quan trọng của nền kinh tế của Việt Nam và rất nhiều đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế thông qua việc mở rộng thị trường, thế hệ vốn đầu tư, công nghệ và chuyển giao kiến thức quản lý và sự kích thích của sự thay đổi về cấu trúc
Being translated, please wait..
